1. Tăng trưởng kinh tế
Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) ước tính tăng 6,56% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4,58%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,24%; khu vực dịch vụ tăng 7,18%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 5%.
Về cơ cấu nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 20,64%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 19,47%; khu vực dịch vụ chiếm 56,01%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 3,88%.
2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Cây hàng năm
Tổng diện tích gieo trồng vụ đông xuân năm 2025 ước tính đạt 38.619 ha, giảm 0,7% hay giảm 273 ha so với vụ đông xuân năm 2024, diện tích giảm chủ yếu là cây lúa, ngô, đậu tương, lạc... Tổng sản lượng lương thực có hạt vụ đông xuân năm 2025 ước đạt 116.905 tấn, giảm 1,31% hay giảm 1.546 tấn so với cùng vụ năm trước và giảm 5,41% hay giảm 6.686 tấn so với kế hoạch.
Cây thuốc lá diện tích trồng tăng 23,59% so với vụ đông xuân năm 2024 và tăng 27,88% so với kế hoạch. Đây là một trong những cây trồng trọng điểm nhằm phát triển kinh tế của tỉnh nên người dân đã chuyển từ trồng ngô, đậu tương, lạc… sang trồng cây thuốc lá. Năng suất ước đạt 25,81 tạ/ha, giảm 1,02 tạ/ha so với cùng vụ năm trước; sản lượng ước đạt 16.535 tấn, tăng 18,87%.
Cây rau trồng được 2.021 ha, tăng 0,9%; năng suất ước đạt 94,14 tạ/ha, tăng 0,32 tạ/ha so với cùng vụ năm trước; sản lượng ước đạt 19.029 tấn, tăng 1,25%.
Cây lâu năm
Diện tích cây lâu năm hiện có ước tính 6 tháng đầu năm 2025 là 12.249 ha, so với cùng kỳ năm trước tăng 5,32% hay tăng 619 ha, tăng chủ yếu ở nhóm cây cây ăn quả do mới bổ sung thêm diện tích trồng cây hạt dẻ vào tổng diện tích cây ăn quả của tỉnh.
Sản lượng thu hoạch một số cây lâu năm 6 tháng đầu năm 2025 như sau: chuối thu hoạch đạt 1.763 tấn, tăng 83 tấn so với cùng kỳ năm trước; dứa thu hoạch đạt 319 tấn, giảm 4 tấn; xoài thu hoạch đạt 145 tấn, tăng 5 tấn; mận thu hoạch đạt 463 tấn, tăng 3 tấn; chè búp thu hoạch đạt 198 tấn, giảm 10 tấn; hồi thu hoạch đạt 1.026 tấn, tăng 66 tấn…
Chăn nuôi
Tại thời điểm 01/7/2025:
Tổng đàn trâu hiện có 104.869 con, giảm 1,27% hay giảm 1.352 con so với cùng thời điểm năm trước. Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng đạt 983 tấn, tăng 3,04% hay tăng 29 tấn so với cùng kỳ năm trước.
Tổng đàn bò hiện có 101.398 con, giảm 0,67% hay giảm 689 con so với cùng thời điểm năm trước. Sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng đạt 1.199 tấn, tăng 2,39% hay tăng 28 tấn so với cùng kỳ năm trước.
Tổng số lợn hiện có 349.872 con, tăng 3,62% hay tăng 12.226 con so với cùng thời điểm năm trước. Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng đạt đạt 15.521 tấn, tăng 3,51% hay tăng 527 tấn so với cùng kỳ năm trước.
Tổng số gia cầm hiện có 3.149 nghìn con, tăng 0,74% hay tăng 23 nghìn con so với cùng thời điểm năm trước. Sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng đạt 3.360 tấn, tăng 3,1% hay tăng 101 tấn so với cùng kỳ năm trước.
Lâm nghiệp
Tính từ đầu năm đến ngày 15/6/2025 tổng diện tích rừng bị thiệt hại 105,21 ha, trong đó: 79,35 ha do cháy rừng; 25,86 ha do chặt, phá rừng trái phép.
Tổng diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 1.772 ha, tăng 3,57% hay tăng 61 ha so với cùng kỳ năm trước.
Diện tích rừng trồng được chăm sóc 10.480 ha, tăng 1,19%. Diện tích rừng được khoanh nuôi xúc tiến tái sinh là 72.393 ha, tăng 9,48%. Số cây lâm nghiệp trồng phân tán trồng được 287 nghìn cây.
Thuỷ sản
Tổng sản lượng thủy sản ước tính đạt 301,81 tấn, tăng 4,3% hay tăng 12,13 tấn so với cùng kỳ năm trước, trong đó: sản lượng thủy sản nuôi trồng ước tính đạt 241,3 tấn, tăng 3,77% hay tăng 8,76 tấn; sản lượng thủy sản khai thác ước tính đạt 60,51 tấn, tăng 6,46% hay tăng 3,67 tấn so với cùng kỳ năm trước.
3. Sản xuất công nghiệp
Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tháng 6 năm 2025 ước tính tăng 30,7% so với tháng trước và tăng 13,79% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: ngành khai khoáng tăng 48,48%; ngành chế biến, chế tạo tăng 32,16%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,69%; riêng ngành sản xuất và phân phối điện giảm 9,24% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2025, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 2,34% so với cùng kỳ năm trước; chỉ số tăng chủ yếu ở ngành khai khoáng tăng 19,52%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,28%. ngành sản xuất và phân phối điện giảm 4,38%; ngành chế biến, chế tạo giảm 7,31%.
4. Tình hình đăng ký doanh nghiệp[1]
Từ ngày 01/01/2025 đến ngày 15/6/2025, toàn tỉnh thành lập mới 64 doanh nghiệp với tổng vốn đăng ký 219 tỷ đồng; số doanh nghiệp thành lập mới bằng so với cùng kỳ, số vốn đăng ký giảm 43% so với cùng kỳ năm trước. Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động là 43 doanh nghiệp, giảm 14% so với cùng kỳ năm trước. Số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường 142 doanh nghiệp, tăng 12% so với cùng kỳ năm trước. Thành lập mới 08 hợp tác xã, giảm 42,7% so với cùng kỳ trước; tổng vốn đăng ký mới 19,8 tỷ đồng; giải thể 01 hợp tác xã.
5. Đầu tư phát triển
Tổng vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh 6 tháng đầu năm 2025 ước thực hiện 4.736,6 tỷ đồng, tăng 25,32% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:
Phân theo nguồn vốn: Vốn Nhà nước ước đạt 2.556,76 tỷ đồng, chiếm 53,98% tổng vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn, tăng 24,18% so với cùng kỳ; vốn của dân cư và tư nhân ước đạt 2.179,78 tỷ đồng, chiếm 46,02%, tăng 26,7%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 0,06 tỷ đồng, giảm 25%.
Phân theo khoản mục đầu tư: Vốn đầu tư xây dựng cơ bản ước đạt 3.519,01 tỷ đồng, chiếm 74,29% tổng vốn đầu tư, tăng 32,14% so với cùng kỳ; vốn đầu tư mua sắm tài sản cố định không qua xây dựng cơ bản ước đạt 316,93 tỷ đồng, chiếm 6,69%, giảm 29,17%; vốn đầu tư sửa chữa lớn ước đạt 834,45 tỷ đồng, chiếm 17,62%, tăng 24,79%; vốn đầu tư bổ sung vốn lưu động ước đạt 66,21 tỷ đồng, chiếm 1,4%; vốn đầu tư khác không phát sinh.
6. Thương mại, dịch vụ, giá cả
Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ
Ước tính 6 tháng đầu năm 2025 tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 6.626,56 tỷ đồng, tăng 12,43% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước tính đạt 5.099,97 tỷ đồng, tăng 12,05% so với cùng kỳ năm trước; Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước tính đạt 1.090,13 tỷ đồng, tăng 14,46% so với cùng kỳ năm trước; Doanh thu dịch vụ du lịch lữ hành ước tính đạt 13,73 tỷ đồng, tăng 72,32%; Doanh thu dịch vụ khác ước tính đạt 422,73 tỷ đồng, tăng 10,58% so với cùng kỳ năm trước.
Hoạt động xuất, nhập khẩu[2]
Trong tháng 6 và 6 tháng năm 2025, hoạt động xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu trên địa bàn tỉnh diễn ra ổn định và được thực hiện chủ yếu tại các cửa khẩu: Tà Lùng, Trà Lĩnh, Sóc Giang.
Tính từ ngày 01/01/2025 đến 14/6/2025, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá qua địa bàn tỉnh đạt 523,9 triệu USD, trong đó: kim ngạch nhập khẩu đạt 185,6 triệu USD; kim ngạch xuất khẩu đạt 338,3 triệu USD.
Chỉ số giá
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6 năm 2025 trên địa bàn tỉnh Cao Bằng tăng 0,11% so với tháng trước, tăng 2,71% so với tháng 6/2024 và tăng 1,86% so với tháng 12/2024.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 6 tháng năm 2025 tăng 2,19% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó: 07/11 nhóm có chỉ số giá tăng, mức tăng cao nhất là thuốc và dịch vụ y tế (+15,52%), kế đến là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống (+7,3%). Ngược lại, 04/11 nhóm có chỉ số giá giảm gồm: giáo dục (-17,16%); giao thông (-6,03%), văn hoá, giải trí và du lịch (-0,17%) và bưu chính viễn thông (-0,16%).
Chỉ số giá vàng tháng 6 năm 2025 giảm 3,38% so với tháng trước, tăng 51,08% so với cùng kỳ năm trước và chỉ số giá vàng bình quân 6 tháng năm 2025 tăng 42,58% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số giá Đô la Mỹ tháng 6 năm 2025 tăng 0,22% so với tháng trước, tăng 2,92% so với cùng kỳ năm trước và chỉ số giá Đô la Mỹ bình quân 6 tháng năm 2025 tăng 3,39% so với cùng kỳ năm trước.
Hoạt động vận tải
Ước tính doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải 6 tháng đầu năm 2025 đạt 241,39 tỷ đồng, tăng 7,01% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: doanh thu vận tải hành khách đạt 108,99 tỷ đồng, tăng 9,16%; doanh thu vận tải hàng hóa đạt 127,57 tỷ đồng, tăng 4,86%; doanh thu dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 4,83 tỷ đồng, tăng 18,58% so với cùng kỳ năm 2024.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, vận tải hành khách ước tính đạt 1.141,4 nghìn hành khách và hành khách luân chuyển đạt 94.668,3 nghìn lượt HK.Km, so với cùng kỳ năm trước tăng 9,42% số hành khách vận chuyển và tăng 8,03% số hành khách luân chuyển.
Vận tải hàng hóa trong 6 tháng đầu năm 2025 ước tính đạt 822,5 nghìn tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 3,97%; hàng hóa luân chuyển ước tính đạt 44.122,3 nghìn tấn.km, giảm 2,49% so với cùng kỳ năm trước.
7. Một số vấn đề xã hội
Đảm bảo an sinh xã hội
Tổng số tiền trợ cấp, phụ cấp chi trả hàng tháng trong quý II/2025 là 36 tỷ đồng, cộng dồn 6 tháng đầu năm là 70 tỷ đồng, tăng 13,6 tỷ đồng (+24,05%) so với cùng kỳ năm trước.
Hỗ trợ đột xuất quý II cho đối tượng người có công và thân nhân của người có công với cách mạng nhân dịp Kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam và 80 năm Ngày Quốc khánh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với số tiền 3,8 tỷ đồng, tính chung 6 tháng đầu năm là 10,9 tỷ đồng, giảm 0,5 tỷ đồng (-4,74%) so với cùng kỳ năm trước.
Hỗ trợ cho các đối tượng bảo trợ xã hội theo Nghị định 20/2021/NĐ-CP: Trợ cấp, phụ cấp hàng tháng trong quý II là 75,3 tỷ đồng, tăng so với quý trước 30,6 tỷ đồng (+68,48%) do được nhận thêm số tiền chi trả trợ cấp, phụ cấp tháng 3.
Hỗ trợ cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn, hộ chính sách xã hội khác: Trong quý II/2025 đã chi trả 3,4 tỷ đồng hỗ trợ tiền điện cho các đối tượng, tăng 2 tỷ đồng so với quý trước (+143,96%) do một số huyện chi trả bổ sung tiền hỗ trợ của quý I. Hỗ trợ đột xuất trong quý gồm tiền và quà trị giá 269,5 triệu đồng.
Cấp phát 425.000 thẻ BHYT miễn phí cho người thuộc hộ nghèo, cận nghèo, người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng kinh tế xã hội khó khăn, đối tượng bảo trợ xã hội, trẻ em dưới 6 tuổi.
Trong 6 tháng đầu năm đã hỗ trợ cứu đói Tết 654,8 tấn gạo từ nguồn dự trữ quốc gia cho các hộ nghèo, cận nghèo trên địa bàn tỉnh.
Tình hình dịch bệnh và an toàn thực phẩm
Tính chung 6 tháng đầu năm, toàn tỉnh ghi nhận 4.205 ca mắc sởi tại 10/10 huyện, thành phố; trong đó có 1 ca tử vong. Một số bệnh lưu hành khác trong 6 tháng đầu năm ghi nhận được: Cúm (1.425 ca), Tiêu chảy (938 ca), Adenovirus (78 ca), Thủy đậu (46 ca), Viêm gan vi rút khác (08 ca), Lỵ a míp (01 ca), Lỵ trực trùng (05 ca), Tay chân miệng (17 ca); Uốn ván sơ sinh (01 ca); Viêm gan C (04 ca); Viêm gan B (01 ca). Ghi nhận 05 trường hợp mắc COVID-19; 10 ca ho gà, trong đó có 01 ca tử vong tại huyện Nguyên Bình; 1 trường hợp nghi tử vong do dại tại huyện Bảo Lâm.
Trong 6 tháng đầu năm 2025 trên địa bàn tỉnh có 01 vụ ngộ độc thực phẩm xảy ra làm 16 người mắc, không có tử vong. Phát hiện 07 trường hợp nhiễm HIV mới và 04 trường hợp HIV tử vong. Duy trì hoạt động điều trị Methadone tại 15 cơ sở điều trị và 04 cơ sở cấp phát thuốc, tổng số bệnh nhân hiện đang điều trị là 1.047 bệnh nhân.
Tình hình an toàn giao thông
Từ ngày 15/5/2025 đến ngày 17/6/2025, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 05 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm 02 người chết, 04 người bị thương. Tình hình tai nạn giao thông giảm đáng kể, lũy kế từ đầu năm, tổng số vụ tai nạn giao thông là 48 vụ (giảm 49 vụ so với cùng kỳ năm trước), làm chết 19 người (giảm 03 người), bị thương 45 người (giảm 66 người).
Tình hình an toàn cháy, nổ
Tháng 6 năm 2025, trên địa bàn toàn tỉnh không có vụ cháy, nổ xảy ra. Tính chung 6 tháng xảy ra 05 vụ cháy (giảm 01 vụ so với cùng kỳ năm trước), làm 01 người chết, tổng giá trị thiệt hại ước tính 1.150 triệu đồng.
Vi phạm môi trường
Lũy kế từ đầu năm đến ngày 14/6/2025 trên địa bàn tỉnh Cao Bằng đã phát hiện 41 vụ vi phạm môi trường, số vụ vi phạm môi trường đã xử lý là 27 vụ với tổng số tiền xử phạt là 275 triệu đồng. So với cùng kỳ năm trước, số vụ vi phạm môi trường giảm 27 vụ, số vụ đã xử lý giảm 06 vụ, số tiền xử phạt tăng 98 triệu đồng.
Tình hình thiệt hại do thiên tai
Tháng 6 năm 2025 trên địa bàn tỉnh xảy ra 02 vụ mưa lốc, giông sét làm 01 người chết, 01 nhà bị hư hại, ước tính giá trị thiệt hại là 240 triệu đồng. Tính chung 6 tháng đầu năm 2025 xảy ra 05 vụ thiên tai, giảm 05 vụ so với cùng kỳ năm 2024. Thiên tai đã làm 01 người chết, 01 người bị thương, 48 nhà bị hư hại; 145,02 ha lúa và hoa màu bị hư hại; 120 con gia cầm các loại bị chết và cuốn trôi. Ước tính giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra khoảng 1.789 triệu đồng.
CHI CỤC THỐNG KÊ TỈNH CAO BẰNG
Ý kiến bạn đọc
Những tin cũ hơn